MẤY LỜI KHUYÊN SINH VIÊN Y KHOA
 BS Nguyễn Hữu Phiếm
(Buổi nói chuyện do trường Đại Học Y khoa Huế tổ chức ngày  29-6-1968 Tại Trung Tâm Y Khoa Đại Học SAIGON)
Các bạn sinh viên thân mến. 
Nghề thuốc mà các bạn đã chọn là  một nghề cao đẹp nhất, và chính để chứng tỏ điều đó nên mới có buổi nói chuyện  hôm nay một buổi nói chuyện thân mật giữa một người thày thuốc- đã hành nghề trên  30 năm- với những người thày thuốc tương lai, giữa một người anh cả với các em  sắp sửa vào nghề, bởi dù muốn dù không các bạn và tôi, chúng ta từ bao nhiêu thế  hệ nay đã được coi như thuộc về một gia đình-đại gia đình y giới- và riêng về  điểm đó, ngay từ bây giờ, các bạn đã thấy nghề thuốc không giống như các nghề tự  do khác. 
Các bạn thân mến. 
Các bạn đã chọn nghề thuốc với tất  cả một tấm lòng nhiệt hứng, hăng say của tuổi thanh xuân, nhưng thử hỏi đã mấy  ai chịu tìm hiểu những lý do thúc đẩy mình vào con đường ấy?
Có một số bạn trẻ chọn nghề này,  coi như một lẽ đương nhiên để nối nghiệp cha anh đã từng là thầy thuốc. 
Có một số, vì ham thích và cũng  như mọi ham thích, khó lòng mà giải thích được tại sao. có thể vì hồi nhỏ ốm  đau, đã được người thày thuốc tận tâm săn sóc, hoặc được mục kích những cảnh  thập tử nhất sinh mà được bàn tay người bác sĩ cứu sống. 
Đối với một số nữa-rất hiếm- có lẽ  làm nghề thuốc vì đó là một thiên chức (une vocation): ngoài mảnh bằng  bác sĩ để hành nghề ra, còn muốn làm một cái gì khác nữa, như trở thành một nhà  khảo cứu, một vị bác học hoặc một giáo sư đại học. 
Thiên chức theo định nghĩa, là  một tiếng nói tự đáy lòng phát ra, nó thúc giục ta làm một việc nào đó, Giáo  sư Maranon bảo là: ”một loại đam mê có tính chất của tình thương, kẻ nào có  một thiên chức coi vật mình yêu như một mụa đích độc hữu, không thể chia xẻ  được. Họ phụng sự mối tình yêu đó mà tuyệt đối không vụ lợi” và vẫn theo lời  Maranon “sở dĩ nghề thuốc suy đồi vì thanh niên, khi chọn nghề đó không phải  vì có thiên chức thật sự, mà chỉ vì hy vọng có một địa vị cao sang”. 
Người ta đã điều tra một số sinh  viên y khoa để biết tại sao họ chọn nghề thuốc: trong số 100 sinh viên có tới 70  người trả lời: Không biết. Còn lại 30 có người bảo: học thuốc để tìm những  thỏa mản tri thức, hoặc vì có một niềm tin hoặc vì nghề đó đã danh  giá lại kiếm được nhiều tiền
Tôi biết một số thanh niên sau khi  đậu xong Tú Tàilưỡng lự không biết chọn ngành nào ở Đại Học bèn chọn đại  Y khoa vì nghe lời cha mẹ hoặc họ hàng thân thuộc-những người này không phải là  thày thuốc, không hiểu nghề thuốc là gì mà chỉ nhìn thấy một khía cạnh sai lầm  là: nhà lầuxe hơi tiền bạc…. Những người đó xem nghề thuốc như nghề đi buôn và  cho rằng học hành vất vả mới giật được mảnh bằng bác sĩ thì dĩ nhiên phải được  đền bù xứng đáng, phải được thụ hưởng. Còn bổn phận của mình những gì, trách  nhiệm ra sao họ đâu có biết hoặc nghĩ tới?Đối với hạng người này tôi xin nhắc  lại ở đây câu nói của P. Le Gendre”
“Kẻ nào chỉ làm nghề thuốc với  hi vọng làm giàu, kẻ đó sẽ thất vọng, vì nghề thuốc chỉ được trọng vọng khi nào  chúng ta có một tinh thần vị tha, hỉ xả. ”
Các bạn thân mến
Khi các bạn chọn nghề này, dĩ  nhiên là để sinh sống, để nuôi gia đình, để hưởng một đời sống sung túc. tuy  nhiên chúng ta không được quan niệm nghề thuốc như một nghề để làm tiền,  vì nếu các bạn hành nghề đúng đắn ít khi các bạn có thể giàu được. 
Ngoài vấn đề mưu sinh ra tất còn  có một lý do nào khác nữa nó thúc đẩy các bạn lựa chọn cái nghề đó. Tôi không  dám dùng những danh từ quá to tát như: “cứu nhân độ thế” mà chỉ nói; sở dĩ làm  nghề thuốc là để mong xoa dịu được phần nào những đau khổ của đồng bào, muốn  giúp ích cụ thể cho xã hội. 
Có bạn học thuốc, như trên vừa  nói, để thỏa mãn tri thức, thỏa mãn sự tò mò, những biết những kỳ quan  của bộ máy con người ta, muốn tháo nó ra từng mảnh để xem bên trong có những gì,  tại sao nó chạy, hoặc muốn tìm cho ra hạt bụi nào đó đã làm cho bộ máy kia tắc,  rồi ngưng chạy…
Đối với sinh viên y khoa, còn gì  vui sướng và hồi hộp bằng lần đầu tiên ở trong bệnh viện, chỉ nhờ có nghe và gõ  lên ngực bệnh nhân mà đã đoán được rằng trong màng phổi có nước và khi lấy chiếc  kim chọc vào phổi thì quả nhiên thấy có nước thật. 
Không những học để biết mà còn để  phụng sự nữa. Còn niềm vui gì bằng sau một thời gian vật lộn với tử thần  người thầy thuốc đã đẩy lui được bệnh và trao trả cho bà me đứa con thân yêu của  bà. 
Người ta muốn phê bình sao thì phê  bình, một người thày thuốc sau một ngày làm lụng vất vả, bảo họ “hái ra  tiền” chẳng hạn, nhưng tôi dám chắc ngoài việc chữa bệnh ra, còn phải có  những động cơ nào khác nó thúc đẩy họ chứ không riêng gì tiền bạc. Họ không thể  không băn khăn lo lắng mỗi khi rời một căn nhà, trong đó có một tính mạng đang  bị đe dọa, hoặc đó là tính mạng của một người cha, cột trụ của cả một gia đình,  hoặc tính mạng của một người mẹ với đàn con thơ dại đang cần có người săn sócdạy  dỗ, hoặc tính mạng của một đứa hài nhi, chỉ có quyền sống chứ không được chết  yểu…
Mối băn khăn đó đôi khi còn ám ảnh  người thày thuốc trong bửa ăn giấc ngủ của họ. 
Người thày thuốc không thể không  có những suy tư sau khi ngồi bên giường bệnh kiên nhẫn nghe lời kể lể tâm sự của  thân chủ mình, rồi cố tìm một lời nói dịu dàng để khuyên nhủ, ngõ hầu xoa dịu  được phần nào những nỗi khổ đau về tinh thần, những khắc khoải hoặc dằn vặt của  một lương tâm đang bị cắn rứt…. 
Người thày thuốc không những chỉ  đem lại cho ta sức khỏe, họ giúp ta sống đã đành nhưng nhiều khi họ giúp ta  nhắm mắt cho yên nữa. 
Chữa khỏi đã vậy, nhưng còn những  khi thất bại ?
Đã mấy ai thấu hiểu được nỗi khổ  của người thày thuốc, dù ham tiền mấy đi nữa, sau khi thâu canh ngồi bên một sản  phụ, những mong cứu sống được cả mẹ lẫn con, hoặc ít nữa một trong hai người,  nhưng rút cuộc không cứu nỗi ai hết. Và trong khi người thày thuốc ấy, khác nào  một kẻ bại trận, rửa tay-hai bàn tay đẩm máu và rung lẩy bẩy- thu xếp đồ dùng  cho vào cặp rồi lủi thủi ra về, mặt mũi phờ phạ, đầu chóang mắt hoa, có những  con mắt ngấn lệ, đầy đau thương, có khi đầy oán hận, nhìn theo và biết đâu không  lên án họ. ? Ôi, VINH NHỤC của nghề thuốc!
Người ta muốn phê bình người thày  thuốc ra sao tùy ý, nhưng tôi dám chắc, trong khi hành nghề, họ không thể không  có một niềm tin, một tia hi vọng, một ngọn lửa thiêng nào đó trong lòng. Nói tóm  lại, thế nào họ cũng phải có một nhiệt hứng khiến họ cảm thấy sung sướng khi tìm  ra căn bệnh. Một niềm vui khi phụng sự và thành công. 
Duhamel đã nói”Không có nghề  nào cao đẹp và buồn bằng nghề thuốc, một nghề đói hỏi nhiều bổn phận, nhiều  trách nhiệm tinh thần, nhưng chính trách nhiệm đó, nhất là trách nhiệm tinh  thần, nó làm cho nghề chúng ta cao đẹp. ”
Những trách nhiệm của người thày  thuốc ở vào thời đại này rất nặng nề, vì không nói tất các bạn cũng rõ là chúng  ta hiện đang sống trong một kỷ nguyên thật là huyền ảo, khoa học tiến quá mau,  ngoài sức tưởng tượng của con người, ” đã làm cho chúng ta trở thành  những bậc THẦN THÁNH trước khi chúng ta xứng đáng làm người”(Jean  Rostand)
Thật thế: chỉ trong vòng ba bốn  chục, y học đã tiến triển và khác hẳn bốn ngàn năm trước và nếu ngoảnh lại nhìn  chặng đường đã qua, chúng ta không thể không giật mình kinh ngạc. 
Giáo sư Jean Bernard đã viết không  phải là quá đáng: 
‘”Một người thày thuốc ở thời  tiền chiến, vắng mặt sau một thời gian 30 năm và nay trở vềsẽ bở ngở không khác  gì một bạn đồng nghiệp của ông sống dưới thời Hippocrate nay tái sinh trước ngày  thế chiến thứ hai”
Tuy nhiên chúng ta những kẻ hậu  sinh, không được quên ơn các bậc tiền bối đã có công lớn với y học, hoặc ít ra  cũng nhớ đến tên tuổi những vị đó, như Pasteur, Claude Bernard, Lister, Yersin,  Fleming …vv. 
Nói về ngoại khoacách đây trên 40  năm một danh y về khoa giải phẫu, giáo sư J. L Faure trong bài diễn văn khai mạc  một cuộc hội nghị quốc tế đã nói: 
“Ngày nay khoa giải phẫu đã lên  tới chỗ tuyệt đỉnh rồi, khó lòng mà tiến hơn nữa”
Tuy nhiên trên lãnh vực y khoa, ai  dám tự hào mình là một nhà tiên tri, và ngày nay -1968- chúng ta có thể lập lại  câu nói và biết đâu trong vài ba năm nhận xét của chúng ta lại không đúng nữa.  
Các bạn tất đã biết nhờ có thuốc  mê (tìm ra năm 1816 ở Hoa Kỳ) mà người ta có thể giải phẫu với những điều kiện  mới. Nhất là sau cuộc cách mạng do Pasteur khởi xướng, cho biết nguyên nhân của  phần nhiều bệnh là vi trùng, rồi nhờ có phương pháp sát trùng (antiseptie) của  Lister, nhất là phương pháp phòng hủ (asepsie) của Terrier, số người chết đi vì  giải phẫu giảm đi rất nhiều. Đồng thời các nhà giải phẫu táo bạo hơn, dám đi sâu  vào trong cơ thể, nào mổ ruột, mổ dạ con, nào giải phẫu xương, khớp xương,  …vvv
Mặc dầu khoa giải phẫu tiến bộ rất  mau, mặc dầu kỹ thuật giải phẫu đã được hoàn bị, vẫn còn có người chết vì giải  phẫu do những xáo trộn trong cơ thể. Quan trọng hơn hết là xáo trộn sinh lý  (desordres biologiques) gây ra một loại bệnh hậu giải phẫu( maladie  post-operatoire) Bệnh này được nghiên cứu kỹ càng để dần dà đưa tới phương pháp  hồi sinh (reanimation) một phương pháp ngày nay rất thông dụng, không những ở  ngoại khoa mà còn ở nội khoa nữa. 
Một trong những kỹ thuật kỳ lạ  nhất của khoa gây mê là đông miên nhân tạo (hibernation artificielle) và  nhờ phương pháp này, người ta có thể giải phẫu tim được. 
Một đàng, nhờ có phương pháp hồi  sinh và thuốc mê, đàng khác nhờ có thuốc trụ sinh-mỗi ngày một nhiều-nhờ có  thuốc ngăn đông huyết (anticoagulants) và sau hết nhờ tiếp máu, có khi thay cả  máu nữa, mà khoa giải phẫu đã đi vào những con đường mà từ xưa tới nay không ai  dám nghĩ tới như là mổ phổi để rồi cắt đi, mổ óc, tủy, xương sống, giao cảm thần  kinh (sympathique) hoặc ghép mạch máu, ghép xương, ghép mắt, ghép thận …vv. Mới  đây các bạn còn nghe nói về những vụ thay tim làm chấn động dư luận thế giới và  khiến mọi người phải kinh ngạc và thán phục vô cùng. 
Bên cạnh những thành công rực rở  đó nội khoa cũng phát triển rất nhanh. 
Nhờ có thuốc trụ sinh, phát minh  vào cuối thế chiến thứ hai, nhiều bệnh truyền nhiễm như thương hàn, giang mai….  đã bị đẩy lui. 
Nhờ có Penicilllin-do Fleming tìm  ra- nhiều loại vi trùng như: pneumocoque, streptocoque, méningocoque. đã bị tiêu  diệt và nhiều bệnh phổi, bệnh đau màng óc cấp tính, bệnh lậu, có thể trị được,  cũng như bệnh đau tim do vi trùng streptocoque viridans-còn gọi là bệnh Osler-  mà xưa kia y học đã phải bó tay. 
Còn nhiều trụ sinh khác cũng được  khám phá và đáng kể nhất là streptomycine-do Waksman tìm ra năm 1943- rất công  hiệu để trị bệnh lao, một trong tứ chứng nan y của ta. Lần đầu tiên bệnh  nguy hiểm này đã bị đánh bại. 
Ngoài trụ sinh ra, người ta còn  tìm ra được nhiều loại thuốc hóa học nữa, trong đó phải kể Isoniazide rất thông  dụng từ năm 1952 để chữa bệnh lao, song song với streptomycine và nhiều thuốc  khác như Chlopromazine (largactyl) để trị các bệnh thần kinh. Từ ngày có thuốc  này và những thuốc mới như resepine, tại các dưỡng đường điều trị người điên,  loạn óc, ta không còn chứng kiến những cảnh huyên náo nữa, và nhất là bệnh nhân  không còn bị đối xử như những con thú vật, mỗi khi lên cơn điên, bị nhốt trong  chuồng sắt, chân tay bị trói chặt, như cách đây trên 30 năm, hồi tôi còn là sinh  viên. 
Chúng ta cũng thể quên được những  khám phá quan trọng trong ngành học về những bệnh do siêu vi trùng gây ra, và  nên biết rằng ngày nay, nhờ có thuốc chích hoặc uống thuốc phòng ngừa mà nhiều  bệnh như bệnh tê liệt (poliomyélite) có thể tránh được, cũng như bệnh  cúm(grippe) bệnh sởi (rougeole). . vv
Những bệnh truyền nhiễm ghê gớm  như bệnh tả (choléra) bệnh dịch hạch (pest) bệnh cùi (hủi) bệnh hoàng đản  (fièvre jaune) không còn là mối lo cho nhân loại như hồi xưa nữa. Và những bệnh  như bệnh ngủ (maladie du sommeil) ở Phi châu, bệnh sốt rét cơn (paludisme) cũng  đã bị đẩy lui. Nhờ có bột DDT mà hàng chục triệu người đã không mắc bệnh sốt rét  cơn. 
Các bạn thân mến. 
Tôi không thể kê khai hết ở đây  tất cả những phát minh khác của y học trong mấy năm vừa rồi, như: sinh tố, kích  thích tố( đặc biệt là cortisone, A. C. T. H ) hoặc nói đến những phương pháp tối  tân để định bệnh bằng quang tuyến, bằng isotope. . vv mà chỉ nhấn mạnh tới những  khám phá quan trọng trên lãnh vực trị liệu thôi. 
Đời sống trung bình của con người  cách đây hai thế kỷ là 35 năm, nay lên tới 70, và có lẽ chỉ trong vài chục năm  nữa số người thọ 100 tuổi là thường. 
Nhưng chúng ta đừng quá lạc quan  và yên trí rằng bất cứ bệnh nào cũng có thể trị được dù y học tiến bộ mấy đi  nữa, hiện nay vẫn còn có một số bệnh mà người ta vẫn chưa tìm ra được nguyên  nhân, như bệnh tê thấp, bệnh chai động mạch(arterio-sclerose), bệnh ung thư máu  (leucemie)…Còn đối với những bệnh ở thần kinh hệ do siêu vi trùng gây ra (virus  neurotrope) chúng ta vẫn còn …. . bất lực. 
Y học hiện nay vẫn chưa có thuốc  để cho ta khỏi già. Không những đừng quá lạc quan mà còn phải biết những nguy  hiểm và những bệnh do chính thuốc gây ra (maladies thérapeutiques). Giáo sư  Michel Conte đã nói: 
Hiện nay chúng ta đang đứng  trước một bi kịch mà chúng ta không phải là khán giả. Chúng ta bị lôi cuốn vào  trong một cơn gió lốc, và chúng ta phải chữa bệnh, tức là phải lực chọn những  thứ thuốc mới, và cái đó không phải là chuyện dễ. Chưa bao giờ quyền lực của  người thày thuốc lại mạnh đến thế, nhưng chưa bao giờ họ lại cảm thấy mình lúng  túng đến thế. 
Trụ sinh khi dùng bừa bãi, có thể  tạo ra nhiều bệnh nặng do vi trùng staphylocoque gây ra, hoặc bệnh nấm(mycose)  hoặc làm cho máu biến đổi. 
Một vài loại sulfamide có thể gây  ra bệnh ngoài da chết người được. Aspirine dùng nhiều có thể làm loét bao tử và  xuất huyết, dùng corisone có thể làm thủng bao tử, gây kinh phong, hoặc làm cho  bệnh lao cũ tái phát. Butazolidine có thể làm băng huyết được. Nhiều tai nạn lưu  thông đã xảy chỉ tại dùng thuốc an thần, những thuốc này làm cho phản ứng chậm  lại. 
Người ta cũng nói nhiều về trường  hợp các lực sĩ chết vì dùng kích thích tố trong các cuộc thi điền kinh. 
Vẫn hay rằng những thuốc nói trên,  trước khi đem ra dúng đã được thí nghiệm cho súc vật (Florey và Chain đã chích  Penicilllin cho chuột và thấy không độc nên mới chích cho người, cũng như các  loại thuốc an thần) nhưng làm sao biết chắc được là khi áp dụng cho người sẽ  không nguy hiểm sẽ không nguy hiểm?Làm sao có thể tiên liệu được những phản ứng  chậm, còn những thứ thuốc, thuộc loại thuốc hóa học, mỗi ngày một nhiều, càng  công hiệu lại càng nguy hiểm)
Người ta đã từng thí nghiệm thuốc  thalidomide trước khi đưa ra thị trường nhưng có ai ngờ đâu rằng dược phẩm đó  lại làm cho các sản phụ sinh ra quái thai. ?
Các bạn thân mến. 
Tôi không có ý nêu ra đây những  nguy hiểm của thuốc để các bạn sợ và đừng dùng, mà chỉ mong sao các bạn thận  trọng mỗi khi các bạn cho toa, nhất là lưu ý các bạn đến những phản ứng bất ngờ  có thể xảy ra với bất cứ loại thuốc nào. bởi vậy các bạn cần hỏi cặn kẻ bệnh  nhân trước khi biên toa cho họ. 
Tôi đã nói với các bạn không có  nghề nào có nhiều trách nhiệm bằng nghề thuốc, nhưng cũng không có nghề nào cao  quý bằng. Cứu sống một người bị thương nặng nhờ giải phẫu kịp thời và đúng kỹ  thuật, làm cho một bệnh nhân đang đau quằn quại chỉ trong phút chốc hết đau  ngay, hoặc trả lại cho một bà mẹ đứ con yêu quý mà bà ta yên trí khó lòng qua  khỏi, tất cả những cái đó, đối với một người không ở trong nghề, thật là phi  thường và được coi như phép lạ. 
Trách nhiệm của người thày thuốc  nặng nề ngay từ khi định bệnh cho đến lúc kê toa, hoặc giải phẫu, bởi tính mạng  của một người nằm trong tay họ. 
Trách nhiệm đó làm cho người thày  thuốc ngày đêm lo lắng đến quên ănmất ngủ. Tôi thành thật mong cho các bạn được  sống những giờ phút lo âu hồi hộp đó vì chính nhờ thế, rồi qua khỏi mới cảm thấy  được tất cả cái cao đẹp của nghề thuốc. 
Trousseau, một vị danh sư của  Pháp, đã từng khuyên các sinh viên y khoa: 
‘”Các bạn có bổn phận làm vẻ  vang cho nghề của các bạn, cũng như nhờ nghề đó mà các bạn được vẻ vang, một  nghề đòi hỏi nhiều hi sinh, một nghề trong đó ngày và đêm của các bạn sẽ là ngày  và đêm của người ốm”
Các bạn nên yên trí rằng các  bạn gieo tận tâm mà sẽ chỉ gặt bội bạc. Các bạn sẽ phải gạt bỏ hết những thú vui  đầm ấm của gia đình và thì giờ nghỉ ngơi sau một thời gian làm lụng vất vả.  
Các bạn không được sợ thối tha  bẩn thỉu hoặc nguy hiểm, các bạn không được lùi bước trước cái chết khi cái chết  đó xảy ra giữa những lúc nguy hiểm của nghề chúng ta, bởi chết như thế sẽ làm  cho ai nấy khi nhắc đến tên bạn, phải tỏ lòng kính mến. ”
Như tôi vừa nói, y học ngày nay  tiến rất nhanh, và muốn trở thành một bác sĩ lành nghề, các bạn khi còn là sinh  viên, phải siêng năng học tập, từ lý thuyết đến thực hành. Định bệnh chậm trễ  hoặc sai lầm khi cho thuốc (cho quá hoặc không đủ liều) đều là những lỗi không  thể tha thứ được. Bởi vậy thiết tưởng trong LỜI TUYÊN THỆ của Hippocrate cần ghi  thêm câu này: Tôi xin thề suốt đời học hỏi Trong thời buổi này, bổn phận  đầu tiên của người thày thuốc là phải học, phải biết, và phải biết cho đến nơi  đến chốn, chứ không được biết lờ mờ. 
Không nói tất các bạn cũng rõ là  những kiến thức của chúng ta ở trên mọi lãnh vực, chứ không riêng gì ở y khoa,  chỉ trong vài ba năm, có khi vài tháng, đã trở thành” cũ rích”. vì vậy chúng ta  cần phải trau dồi học hỏi luôn luôn, suốt đời chúng ta vẫn phải là sinh viên đầy  nhiệt hứng. Bận rộn mấy các bạn cũng cố dành thì giờ để đọc sách, báo y học, ngõ  hầu theo dõi những tiến triển của y khoa, và nếu các bạn có thể tìm tòi, khảo  cứu được thì càng hay. Thật là một tai họa cho người ốm nếu chẳng may gặp phải  ông thày thuốc, dù tử tế dù tận tâm, nhưng” gà mờ “khiến tiền mất mà tật  vẫn mang. 
Người ta thường nói”có học mà  không có lương tâm là sự đồi bại của linh hồn” (science sans conscience  n’est que ruine de l’âme) nhưng có lương tâm mà không có học, nhất là khi làm  nghề thuốc, cũng bằng thừa, nguy hiểm nữa là khác. “Tài năng và lương tâm  chức nghiệp đều có liên hệ mật thiết với nhau, và giá trị nghề nghiệp phải đi  đôi với giá trị đạo đức. Dốt nát và lừa bịp đều như nhau cả” (Gosset)
Ngoài việc trau dồi kiến thức y  học, người thày thuốc còn phải có một vài đức tính sau đây: 
a)Có óc nhận xét, nếu không  sẽ bỏ qua những triệu chứng cần thiết để định bệnh. 
b) Có lương tri, tức óc phê  bình, biết phán đoán, không quá tin ở những kỹ thuật hoặc thuốc mới nếu xét thấy  những kỹ thuật và thuốc này trái ngược với bệnh lý (phòng thí nghiệm vẫn có thể  nhầm được). Đừng ham mới chuộng lạ nếu thuốc kê cho bệnh nhân dùng chưa được các  danh sư hoặc các bác sĩ đứng đắn xác nhận là công hiệu và không nguy hiểm. Có  nhiều thứ thuốc hôm nay được ca tụng như thần dược mà chỉ trong một thời gian  ngắn đã bị bỏ rơi (trường hợp vàng để trị bệnh lao, thạch tín (arsenic) để chữa  giang mai. . ) Bởi vậy trước khi cho toa các bạn phải thận trọng và luôn luôn  nhớ tới lời châm ngôn cổ: Primum non nocere (trước hết đừng làm hại).  
c) Có kinh nghiệm: 
Muốn có kinh nghiệm dĩ nhiên phải  hành nghề lâu năm. Tuy nhiên đối với nghề thuốc cũng như với nhiều nghề khác,  các bạn đứng tưởng rằng cứ nhiều tuổi nghề mà có nhiều kinh nghiệm, nhiều từng  trải, vì có “những cái mà mình cho là kinh nghiệm, kỳ thực là những sai lầm  chồng chất lên nhau” (Sergent)
Một sinh viên y khoa năm thứ nhất,  lần đầu tiên gặp một người mắc bệnh thương hàn lần sau gặp một người sốt liên  miên, nom có vẻ mệt mỏi, chàng ta không do dự gì cả, bảo người đó bị bệnh thương  hàn. Trái lại một sinh viên năm thứ năm, hoặc một sinh viên nội trú hoặc một vị  giảng sư dù đã từng chữa hàng trăm người mắc bệnh đó rồi, bao giờ cũng dè dặt,  không vội vả. Những người ít học lại càng hay tự phụ, còn những người học rộng  tài cao lại càng khiêm tốn”khác nào những bông lúa lép bao giờ cũng ngạo nghễ  vươn đầu lên trời, trong khi những bông lúa vàng nặng trĩu hạt thì nằm rạp xuống  đất" (Leonard de Vinci )
Ngoài kiến thức về y học ra người  thày thuốc còn phải có những đức tính tinh thần, nhất là phải có tình thương.  
Làm thày thuốc dù giỏi, dù có  lương tâm mà thiếu tình thương thì chỉ được coi như mới làm có một nửa phận sự  thôi, và nhất định không thể nào yêu nghề được. Từ mấy ngàn năm nay Hippocrate  đã nhấn mạnh tới điểm quan trọng này rồi. 
Bạn săn sóc người ốm, sau khi đã  thăm bệnh, cho toa, dặn dò cặn kẻ cách dùng thuốc như thế nào và cho biết bệnh  tình nặng nhẹ ra sao, bao giời khỏi, rồi bạn ra về, như vậy đã đủ chưa? Tôi thấy  là chưa đủ. Vì ngoài cái đau đớn về thể xác, bệnh nhân nào cũng mong được vỗ về,  an ủi, bệnh nhân nào dù sang hèn, cũng muốn rằng người thày thuốc kiêm cả một  nhà tiên tri nữa, biết hiện tại lẫn tương lai, chữa được mọi bệnh ngay cả tâm  bệnh. 
Phải chính bản thân mình đã từng  bị đau ốm mới biết thế nào là một người thày thuốc. Trong khi mong đợi thì xiết  bao lo ngại, băn khoăn, rồi khi thấy mặt thì mừng rỡ, cảm thấy vững tâm ngay.  Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của người thày thuốc đều quan trọng đối với người bệnh,  và người này chỉ muốn cho ông thày lúc nào cũng ở bên cạnh mình, không rời mình  ra, bất kể đêm khuya, bất kể họ mệt nhọc. Nào chỉ có thế thôi !Lại còn những lời  trách móc nếu mời mà đến chậm, hoặc đi vắng vì hôm đó nhằm ngày chủ nhật hay  ngày lễ. 
Chính nhờ có sự vững tâm nói trên  mà nhiều khi bệnh mau khỏi. Bởi lẽ đó, y học muốn trở thành một nghề cao quý,  cần phải là một nền y học nhân bản, nghĩa là hiểu thấu những gì thuộc về con  người, con người toàn diện, con người trong quá khứ và hiện tại. Và nhất là phải  tôn trọng con người. 
“Nhân bản là cảm thấy trong  lòng con người ta trải qua bao thế kỷ, cái gì đó vẫn bất di, bất dịch, con người  thì hoàn toàn và sống trong một thế giới thích hợp với họ, con người biết rung  động trước thiên nhiên, biết rung động khi nghe một bản nhạc, khi đọc một cuốn  sách khi suy ngẫm về những sự huyền bí của tạo vật. Nhân bản tức là biết cảm,  biết yêu, biết thương xót” (Maranon)
Một người ốm, không phải chỉ có  phần xác, với tim, gan, phổi, thận mà thôi, lại còn có cái mà từ ngàn xưa Platon  gọi là phần hồn nữa. 
Một bệnh nhân thuộc về bất cứ  thành phần nào trong xã hội không phải là một con số, hay là một lá phiếu như ta  thường quan niệm ở bệnh viện. Họ không phải là một kẻ vô danh, mà ngược lại, là  một người như chúng ta, một người có tên, có tuổi, có nghề nghiệp, địa chỉ, có  gia đình, có những hoài bão, ước mơ, cảm xúc. 
Các bạn nên biết rằng một bệnh  nhân khi nằm trên giường bệnh, không bao giờ có những phản ứng tâm lý như một  người bình thường, và buổi đầu thế nào họ cũng có những xúc động lo âu. 
Người thày thuốc không phải là một  người thợ máy sữa chữa cơ thể như ta sửa một cái máy hư”Đó là một con người  cúi xuống một con người khác, mong giúp đở họ, có gì cho nấy, đem lại cho họ một  chút khoa học nhưng rõ nhiều tình thương”(Ignacio chavez). 
Muốn rằng thày thuốc là một con  người máy và người ốm là một con số tức là không hiểu một tí gì về khoa tâm lý  cả. Không nói tất các bạn cũng rõ là con người ta phức tạp vô cùng, đầy mâu  thuẩn, có lúc sống với những bản năng cực kỳ hèn thấp, nhưng đôi khi lại có  những hành động thật là cao thượng, siêu nhân. Và có lẽ bởi nhìn thấy rõ các  nhược điểm đó nên người thày thuốc, mỗi khi gặp một bệnh nhân khó tính, hoặc đối  xử với mình tệ bạc mà vẫn sẳn lòng tha thứ. 
Không có một bộ máy nào dù cho  tinh xảo mấy đi nữa, có thể ủy lạo người ốm với những lời dịu dàng trìu mến  được, và giữa người thày thuốc và con bệnh, bao giờ cũng có một sự cảm thông,  một mối dây liên lạc mật thiết “một cuộc đối thoại kỳ lạ”(une colloque  singulier) như Duhamel đã nói, một bên thì ký thác những gì bí ẩn trong cõi lòng  của mình, còn một bên thì cho mà không hề đòi hỏi. Hiểu như vậy các bạn sẽ cảm  thấy sung sướng vô cùng, và nếu cái học của các bạn không phải là cái học nhân  bản thì thật là vô ích và đáng tiếc lắm. 
Tóm lại đối với người thày thuốc,  xứng đáng với danh từ đó “không có bệnh mà chỉ có con bệnh thôi” (Mondor).  
 *************
Ta thường nghe người ta phê bình  ông thày thuốc này tốt, ông kia tử tế. Tốt hay tử tế không phải vì mát tay, mà  vì ngoài công việc chữa bệnh ra, người thày thuốc còn hỏi han đến gia cảnh của  thân chủ mình, đến sự học hành của con cái họ, có khi khuyên răn, có khi giúp  đở, nghĩa là làm tất cả những gì có thể làm cho bệnh nhân và gia đình họ được  hài lòng “ chỉ có người tốt mới có thể thành danh y được (Nothnagel) vì nhiều  khi chính nhờ tấm lòng tốt của người thày thuốc mà bệnh nhân chóng bình phục.  
Ngoài tình thương và tấm lòng tốt  ra người thày thuốc còn phải tế nhị đối với bệnh nhân nhất là ở bệnh viện. 
Các bạn đừng quên rằng người ốm  bao giờ cũng có nhiều mặc cảm (mặc cảm tự ti) hay lo lắng và thường để ý tới cử  chỉ và lời nói của các bạn. 
Các bạn đừng khinh người nghèo khó  và nên nhớ rằng trước bệnh tật và cái chết ai ai cũng như nhau cả. 
Ambroise Pare người đã được coi  như cha đẻ của khoa giải phẫu, nguyên là ngự y cho vua Chareles IX một hôm nhà  vua đau cho vời ông lại và bảo: “Trẩm mong khanh săn sóc Trẫm chu đáo hơn  những người khác” Ambroise Pare đáp”Tâu bệ hạ hạ thần rất tiếc vì kẻ hạ  thần chữa thân chủ của hạ thần như chữa các bậc đế vương”
Ngay đến những sa đọa về tinh thần  của bệnh nhân các bạn cũng phải tôn trọng. 
Các bạn sinh viên thân mến, 
Như trên tôi vừa nói, trong nghề  thuốc của chúng ta có nhiều buồn, nhiều đau khổ hơn vui, nhất là nhiều  nhục hơn vinh. Có những người mà ta tận tình săn sóc lại là những kẻ bội  nghĩa vong ân, và trái lại, có những người mà tự xét ta chẳng làm được gì gọi là  đáng kể thì suốt đời họ lại coi ta như bậc ân nhân. 
 *********
Nói tới những bổn phận của các  bạn, tôi không thể không đề cập đến vấn đề bí mật nghề nghiệp (secret  professionnel)
Tuyệt đối người thày thuốc không  được tiết lộ cho ai biết căn bệnh của thân chủ mình. Trong bệnh viện khi các bạn  còn là sinh viên, các bạn không được nói to để người ngoài biết bệnh tình của  con bệnh, hoặc cho biết họ mắc bệnh gì (một bà chủ muốn biết người làm công của  mình mắc bệnh lao hay không). Ngay cả đối với nhà cầm quyền, các bạn cũng không  được tiết lộ những gì bạn biết về thân chủ của các bạn. Khi viên cảnh sát trưởng  hỏi ông Dupuytren để biết ai là kẻ phiến loạn trong số người nằm điều trị trong  bệnh viện, ông ta đáp: ”Tôi không biết ai là phiến loạn cả, tôi chỉ biết có  những người bị thương thôi”
Các bạn cũng nên biết rằng các bạn  có thể bị phạt tù nếu các bạn không kín miệng. 
Sau hết các bạn phải có lương tâm  chức nghiệp, hay nói một cách vắn tắt, các bạn khi hành nghề phải có lương tâm.  Giaó sư Jean Gosset đã từng nói;”Trong phòng giải phẫu người thày thuốc là  chúa tể sau đức Thượng Đế nhưng có trách nhiệm trước lương tâm của mình”
Không riêng gì thày thuốc ngoại  khoa mà có thể nói một cách tổng quan là không một ai có thể kiểm soát nỗi  một bác sĩ ngoại trừ lương tâm của họ
Sởv dĩ ngày nay y học không có một  địa vị xứng đáng trong xã hội, sở dĩ người thày thuốc không được trọng vọng,  không được kính nể như hồi xưa (kể cả ở Việt Nam) là bởi trong nghề của chúng ta  có một số con chiên ghẻ, thiếu lương tâm chức nghiệp. 
Các bạn thân mến
Nghề thuốc mà các bạn đã lực chọn  không giống những nghề khác. Nhất định không, một trăm, một ngàn lần không. Ai  đã chọn nghề này cần phài biết rằng có nhiều cái không được phép làm, và phạm  tới những cấm điều đó, tức là làm hoen ố nghề mình. 
Nếu các bạn không muốn sống khắc  khổ, không sẳn sàng hi sinh tốt hơn hết là các bạn tìm một nghề khác, ngay từ  bây giờ cũng chưa muộn. Không thiếu gì nghề ngoài nghề thuốc vừa đem lại cho các  bạn danh giá tiền bạc lại không vất vả, nhất là không có trách nhiệm gì hết.  
Có người, nhiều người lắmtưởng  rằng nghề thuốc cũng như nghề đi buôn. Kỳ thực, giữa nghề đi buôn và những nghề  tự do, trong đó có nghề thuốc, có một hố sâu không sao lấp được. 
Mục đích nghề đi buôn là mua rồi  bán để lấy lời. Giá hàng cao hay hạ là tùy thuộc ở món hàng tốt hay xấu, bền hay  không bền. 
Trái lại mục đích chính của nghề  tự do không phải là tiền tài hay lợi lộc. Người thày thuốc khi săn sóc một người  ốm, cũng như một giáo sư khi giảng bài cho học sinh, sinh viên, đều cố gắng hết  sức mình chứ đâu có nghĩ tới tiền thù lao, lương lậu ?
Người đi buôn có quyền làm quảng  cáo rùm beng, hoặc trên báo, hoặc trên đài phát thanh, trên đài truyền hình để  “câu khách”, hoặc nhờ người dắt mối rồi cho họ ăn hoa hồng. 
Người đi buôn có thể rao ầm ỉ để  mọi người biết là hàng của họ đep, bền, rè nhất thế giới chẳng hạn mà không sợ  ai chê cười. Trái lại, người thày thuốc, biết tự trọng, có liêm sĩ, không được  phép làm như vậy. Không những Y sĩ đoàn, Nghĩa vụ luận không cho phép mà chính  lương tâm của họ cũng không cho phép. 
“Người ốm không phải là một món  hàng và chúng ta cũng thế, chúng ta không phải là món hàng để cho thiên hạ đem  tiền ra mua chuộc. Chính người thày thuốc, khi đem tài nghệ của mình ra để phục  vụ người ốm, đã làm ơn cho họ, chứ không phải người ốm, vì đem tiền bạc hay thế  lực mà ban ơn cho người thày thuốc”. (Leannec)
Ngoài bổn phận đối với bệnh nhân  ra, các bạn còn có bổn phận đối với các bạn đồng nghiệp nữa. 
Tôi nhận thấy ngày nay phần đông  các bác sĩ không đối xử với nhau như các bậc đàn anh của họ hồi xưa: trên kính  dưới nhường. Tuyệt đối các bạn không được nói xấu bạn đồng nghiệp, không được  phê bình (với ác ý) chỉ trích cách định bệnh hoặc chữa bệnh của họ, không  được gièm pha để tranh khách, không được len lỏi vào một gia đình nếu gia đình  đó đã có một dồng nghiệp rồi. 
Giáo sư P, V. Badot có kể lại  truyện về giáo sư Maranon, một hôm tới bệnh viện Bichat và chăm chú nghe một  sinh viên nội trú giới thiệu một bệnh nhân mắc chứng bệnh ở nội tiết tuyến  (glandes endocrines) P, V. Badot viết: ”Khi tôi hỏi ý kiến của ông trước mặt  đông đủ học trò của tôi thì ông chỉ mỉm cười, không trả lời. Khi chỉ có một mình  ông với tôi, tôi nói: 
-Thế nào ông có đồng ý  không?
Giáo sư Maranon đáp: 
-Tôi không hoàn toàn đồng ý với  học trò của ông. 
-Thế tại sao lúc ấy ông không  nói?
-Bởi vì không ai có thể biết sự  thật chắc chắn được, Vả lại, không bao giờ được làm mất lòng một bạn đồng nghiệp  cả!”
Rồi giáo sư PVBadot kết luận:  “Lịch sự tới cực độ ấy là một đặc tính của ông. ”
Còn một điều này nữa tôi muốn nói  với các bạn, là ngoài nghề thuốc racác bạn cần phải trau dồi văn hóa, không  những trên lãnh vực khoa học mà cả trên lãnh vực văn chương nữa. Ở vào thời buổi  này một nhà khoa học phải ham thích văn chương cũng như một nhà văn, không thể  không biết tới khoa học. 
Chính nhờ văn hóa mà bạn có óc phê  bình, sự phán đoàn của bạn được sắc bén, mau lẹ và minh mẫn, trí tuệ không bị  cùn nhụt, căn cỗi, thành chai, tâm hồn của bạn vẫn giữ được trẻ trung mãi mãi.  
 Giáo sư P, V. Badot đã viết: 
Phải mở mang trí tuệ của thnh  niên hơn là để họ sống gò bó trong khuôn khổ chật hẹp của y khoa. 
Tôi nhận thấy nhiều danh y của thế  giới, hoăc nhiều giáo sư đại học, đều là những người hiếu học, ham đọc sách, yêu  sách, yêu nghệ thuật, học thức rất uyên thâm, vừa là thầy thuốc trứ danh, vừa là  nhà văn nổi tiếng, như Mondor (nổi danh nhờ con daocây bút và cây cọ) Jean  Delay, P. V. Radot, Duhamel…. những người này vừa có chân trong Hàn Lâm viện Y  khoa vừa là Hội viên của Hàn Lâm viện Pháp. 
Nữ văn hào Han Suyin, Sommerset  Maugham, Cronin, trước khi là nhà văn, đã từng làm nghề thuốc. 
Tchekov, đại văn hào Nga, vừa sống  về nghề thuốc, vừa viết văn. Ông thường nói: ”Y học là vợ chính thức của tôi,  còn văn chương là tình nhân. Khi tôi chán bà này thì tôi đi với bà kia. Tuy  nhiên đối với cả hai, tôi đều trung thành cả. Nếu không có nghề thuốc, có lẽ tôi  không có tài liệu để viết văn. ”
Giáo sư Trousseau già tôi đã dẫn  thượng, cũng bảo: Một nhà bác học mà không phải là một nghệ sĩ chỉ là một nhà  bác học tầm thường”
Bởi vậy tôi khuyên các bạn, ngoài  việc học ra, nên để thời giờ nhàn rỗi, trau dồi văn hóa, rèn luyện văn chương,  nghệ thuật (âm nhạc hội họa……) chơi thể thao, để cuộc đời đỡ buồn tẻ, vì theo  tôi, nếu suốt đời làm mãi một nghề, bất cứ nghề gì, mà vẫn hăng say, không thấy  chán thì quả thật là một sự lạ. 
Không những để cuộc đời khỏi buồn  tẻ mà còn làm cho đời sống thêm phong phú, để biết sâu hiểu rộng, ngoài lãnh vực  y khoa. 
Người ta thường so sánh thày thuốc  với ông Cha sở và ông Luật sư. Tôi không mang tiếng mắc bệnh chủ quan nếu phê  bình vai trò của ba loại người đó, mặc dầu ở đây chỉ có các bạn và tôi mà chỉ  xin dẫn Balzac và Duhamel là hai văn hào đã viết rất nhiều về cuộc đời của mấy  nhân vật đó. Balzac nói: 
Tôi cho rằng sở dĩ văn minh tiến  bộ và nhân loại được sung sướng là nhờ ba người này”
Nhưng sau khi nhận thức đúng vai  trò của người thày thuốc, ông nói thêm: 
“Người nhà quê sẳn sàng nghe  lời người kê toa cho mình để họ khỏi bệnh hơn là nghe lời ông Cha sở diễn thuyết  về việc cứu vớt linh hồn. Một đàng có thể nói chuyện với họ về đồng áng và một  đàng, chỉ có thể bàn với họ về thiên đàng, điều mà họ ít quan tâm tới. ”
Còn Duhamel thì viết về ba vị đó  như sau: 
“Ông luật sư mà ta nhờ cậy để  bệnh vực công lý cho ta có thể chọn ngày giờ để tiếp khách. Nếu ông yêu nghề,  ông sẽ hăng hái làm việc, dù sao, không có gì cấp bách cả. Đối với thân chủ của  ông, dù sao tình thương không quý bằng tài hùng biện, bằng sự khôn khéo, bằng  giao thiệp rộng. 
Công việc của một nhà tu hành  có thể ví với công việc của người thày thuốc. tuy nhiên tôi cần nói ngay là chỉ  khi nào hấp hối, người ta mới mời ông Cha Sở. Lương tâm dù bị cắn rứt, đợi đến  sáng hôm sau cũng không muộn. Nhưng thường thường khi lên cơn đau vì trong thận  có sạn, thì không thể nào đợi được. Ít khi người ta đánh thức ông Cha sở, dù ông  này tốt, vì có người ăn năn sám hối; nhưng hơi nhức đầu một tí, có khi chẳng sao  cả, đang đêm người ta cũng dựng ông thày thuốc dậy. ”
Các bạn sinh viên thân mến
Tôi vừa phác họa ra đây hình ảnh  của một người thày thuốc, xứng đáng với danh từ ấy, suốt đời tận tụy, hi sinh  cho người ốm, không quản vất vả, không mấy khi có thì giờ để nghỉ ngơi, giải  trí, bữa ăn giấc ngủ thất thường, ngay đến những thú vui trong gia đình cũng  không được hưởng, đã thế lại gặp nhiều bội bạc, hoăc có khi bị chính các bạn  đồng nghiệp dèm pha, ghen ghét. 
Tuy vậy nhưng tôi chưa hề thấy một  người thày thuốc nào than phiền về cái nghề của họ, vì đó là một nghề cao đẹp,  cao đẹp hơn hết mọi nghề khác cao đẹp ở chỗ tất cả những cảnh khổ não trên thế  gian này chỉ càng thắt chặt thêm mối dây liên lạc giữa người thày thuốc với  người ốm, không phân biệt giàu sang hay nghèo hèn, cao đẹp ở chỗ chỉ có nghề  thuốc mới dung hòa được khoa học với lý trí và tình thương. 
Và để kết thúc buổi nói chuyện, kể  cũng khá dài rồi, tôi xin mượn lời giáo sư E. Rist, trích trong cuốn: Y học là  gì ?(Qu’est-ce la Medicine ?)
“Muốn lúc nào cũng lãnh được  hết trách nhiệm tinh thần của nghề chúng ta, chỉ có cách chắc chắn nhất, ấy là  chuyên tâm vào nghề của mình, yêu nghề đó tha thiết, và luôn luôn cố gắng để mỗi  ngày một tiến. 
Người thày thuốc muốn được tín  nhiệm cần phải xứng đáng là người thày thuốc, cần phải có một nếp sống giản dị,  không xa hoa đàng điếm, phải lập gia đình và ở trong gia đình, nêu một tấm gương  thanh bạch đứng đắn. 
Người thày thuốc phải sống thực  tiễn và sống theo thời đại. Trí tuệ phải được rèn luyện, trau dồi luôn, hợp nhân  đạo. Đối tượng của sự học là con người, con người toàn diện. 
Người thày thuốc không những  nên tìm hiểu con người trên lãnh vực khoa học mà còn cần biết đến đời sống tâm  linh nhờ được tiếp xúc với đủ mọi tầng lớp người, nhờ được trông thấy những thử  thách của cuộc đời và làm quen với những kiệt tác của nhân tâm, của nghệ thuật  và của khoa học. 
Sống cho người thân yêu và cho  nghề của mình, đó không phải là một đề mục khá đẹp cho một mộ chí hay sao? Và  nếu lại còn được cái đặc quyền sống cho Tổ Quốc nữa thì thật là sung sướng vô  cùng. Và chung quy có lẽ đó là một cách thẳng thắn nhất để sống cho nhân loại.  ”
Tôi thành thật cầu chúc cho các  bạn sẽ là người thày thuốc gương mẫu đó.
******************
VÀI LỜI GIỚI THIỆU VẾ BS NGUYỄN  HỮU PHIẾM
Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm là một Tiến  sĩ Y khoa tốt nghiệp tại Pháp, không rõ sinh năm nào, chỉ biết ngày 1-7- 1949  được bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Y Tế thời chính phủ Bảo Đại. Ông hoạt động trong  nhiều lĩnh vực Giáo dục Chính trị, Văn Học, có nhiều bài viết trên các báo thời  Pháp thuộc, quen biết với nhiều người trong các giới chính quyền cũng như các  văn nhân, nghệ sĩ. Ông có mở phòng mạch ở Đà Lạt, rất được nhân dân thương mến  vì tận tụy với bệnh nhân, nhất là bệnh nhân nghèo. Nơi đây ông là bạn chí cốt  với nhà văn đứng đầu nhóm Tụ Lực Văn Đoàn là Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Khi  Nhất Linh tự vẫn do chống chính quyền Diệm ông tận tình theo sát tới khi Nhất  Linh mất. Vì nổi tiếng liêm khiết và hết lòng với bệnh nhân nên ở Đại Học Y khoa  Huế ông được cử làm giáo sư phụ trách giảng dạy môn Nghĩa Vụ Luận. Năm 1968  trường Đại Học Y Khoa Saigon mời ông diễn thuyết về đạo đức y khoa tại trường  này. Tài liệu hôm nay chính là bản văn ông diễn thuyết ngày đó. trích trong cuốn  Lời khuyên sinh viên Y Khoa do ông chủ biên và do trung tâm học liệu bộ Giáo Dục  xuất bản năm 1972. Tôi xin chép lại cho các bạn xem. Những ý tưởng trong bài tôi  đã đọc trên 30 năm hôm nay xem lại thấy như mới, vô cùng cảm động. Các bạn hãy  giữ nó làm chỉ nam giống như tôi đã giữ nó trên 30 năm nay. Đối với những người  đồng cảm thì những lời trong bài “ngân lên vang vọng hòa nhịp với con tim  người xem, gây ra một cảm giác không gì sánh được”. 
Khác với các bài giáo điều BS Phiếm  trình bày bài nói chuyện rất chân tình, thực tế. Tác giả nhấn mạnh đến khía cạnh  TRÁCH NHIỆM chính điều này đã làm nghề y khác hẳn những nghề khác, vinh nhục  cũng từ đó mà ra. Nhiều người từ góc độ của nghề khác phê phán so bì với ngành y  chúng ta, họ quên rằng bản chất của nghề y hoàn toàn khác hẳn các nghề khác.  Mong rằng các bạn khi đọc xong lời khuyên này thì hãy còn chút gì đấy đọng lại  trong tâm tư, đừng để gió cuốn đi.
 Nguồn: www.ykhoanet.com
Cám ơn Thầy... Có lẽ em không hiểu hết, nhưng đã gỡ được những khúc mắc, mâu thuẫn trong em...
Trả lờiXóaem da nhin thay duoc xa hon
Trả lờiXóacám ơn thầy rất nhiều!...giờ em co thể biết được em cần làm gì...............
Trả lờiXóaTHAY OI, CAM ON THAY NHIEU LAM. NEU HOC TRO DUOC DOC BAI VIET NAY SOM HON THI CO LE TRO DA KHONG LANG PHI QUA NHIEU THOI GIAN CHO NHUNG VIEC VO ICH!
Trả lờiXóacám ơn thầy rất nhiều, em như đã hiểu được nhiều điều. Không ai sống được hai lần, em sẽ không lãng phí bất kì giây phút của cuộc đời này lần nữa.
Trả lờiXóaanh sang doi toi
Trả lờiXóaKhông ai có thể chết hai lần, chỉ hi vọng lần duy nhất khi ta từ giã cõi đời sẽ có được lòng yêu thương của một vài người thôi..........
Trả lờiXóađừng để gió cuốn đi..dù là điều nhỏ nhất.Cảm ơn thầy!
Trả lờiXóabài viết này đã tiếp thêm ý chí cho em, cảm ơn thầy rất nhiều. ít nhất em cũng biết rằng những gì mình đang theo đuổi đang và sẽ có ý nghĩa đến nhường nào. những lời khuyên này thực sự rất quý giá, nhưng.... để biến những điều ấy thành hành động thì cần lắm những nổ lực và cố gắng của bản thân. em rất sợ sau này khi ra trường, đứng trước đau đớn của bệnh nhân mình dư nhiệt tình mà không đủ khả năng cứu chữa....!
Trả lờiXóadài quá, để nghị covert sang audio đi
Trả lờiXóacám ơn những gì thầy đã truyền đạt.em vẫn hi vong sẽ có that65 nhiều những thầy thuốc làm được như lời thầy dạy.chính em cug như vậy.một thầy thuốc tương lai ,em mong là mình sẽ không đi sai con đường của một thầy thuốc chân chính...cảm ơn thầy rất nhiều
Trả lờiXóacám ơn thầy rất nhiều!!
Trả lờiXóaCám ơn thầy rất nhiều!!
Trả lờiXóaEm cảm ơn thầy!
Trả lờiXóa